Chuyên nghiệp hóa chuỗi giá trị sầu riêng: Yêu cầu tất yếu để phát triển bền vững

Mặc dù Trung Quốc tiếp tục là thị trường xuất khẩu chủ lực, chiếm tới 97,2% kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam trong năm 2024, nhưng sự lệ thuộc này đang tiềm ẩn nhiều rủi ro. Năm 2025, lượng xuất khẩu sầu riêng sang thị trường này sụt giảm mạnh tới 71,3%, kéo theo kim ngạch giảm 74%. Thị phần của Việt Nam tại Trung Quốc theo đó tụt từ 42,1% xuống còn 28,2%. Trước tình hình đó, yêu cầu chuyên nghiệp hóa các tác nhân trong chuỗi giá trị sầu riêng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Đầu tư thỏa đáng tạo sự liên kết
Việc Tổng cục Hải quan Trung Quốc chính thức công nhận thêm 829 mã số vùng trồng và 131 cơ sở đóng gói sầu riêng Việt Nam được xem là nỗ lực đáng ghi nhận của ngành nông nghiệp. Tính đến nay, cả nước có 1.396 mã số vùng trồng và 188 cơ sở đóng gói được phê duyệt.
Theo bà Ngô Tường Vy, Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu, đây là tiền đề thuận lợi để ngành sầu riêng Việt Nam củng cố vị thế tại thị trường Trung Quốc.
“Sầu riêng Việt Nam hiện có chất lượng ngon, sạch, không hề thua kém Thái Lan hay Malaysia, nhờ sự tham gia đồng bộ từ nhiều thực thể trong chuỗi giá trị”, bà Tường Vy khẳng định.
Bà Vy đánh giá, Việt Nam có nhiều lợi thế so với Thái Lan về điều kiện tự nhiên cũng như kỹ thuật sản xuất, thu hoạch, xử lý của nông dân và công nhân. Tuy nhiên, để phát huy tiềm năng, cần có sự điều phối đồng bộ giữa nhà nước và doanh nghiệp trong toàn chuỗi giá trị.
Tại Tiền Giang, một trong những địa phương trồng sầu riêng trọng điểm, ông Trần Hoàng Nhật Nam, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh, cho biết diện tích thực tế đã vượt kế hoạch gần 10.000 ha. Tuy nhiên, chỉ 25% diện tích được cấp mã số vùng trồng, cho thấy công tác quản lý còn nhiều bất cập.
Việc thiếu nhân lực, thiếu kinh nghiệm tại địa phương dẫn đến tình trạng gian dối trong sử dụng mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói.
Ông Nam kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường hỗ trợ địa phương xây dựng phòng kiểm nghiệm đạt chuẩn, đồng thời sớm ban hành tiêu chuẩn quốc gia cho trái cây tươi xuất khẩu, đặc biệt là sầu riêng.
Còn ông Mai Xuân Thìn, Tổng Giám đốc Công ty Rồng Đỏ, cho rằng Việt Nam cần học hỏi Thái Lan trong xây dựng chuỗi giá trị sầu riêng, đồng thời đề xuất hợp tác với nước này để hình thành thương hiệu khu vực. Trung Quốc ngày càng siết chặt kiểm soát an toàn thực phẩm – nhất là sau sự cố dư lượng Vàng O (Auramine O) từ Thái Lan – nên việc xây dựng tiêu chuẩn sản xuất chung giữa các nước Đông Nam Á có thể tạo niềm tin cho người tiêu dùng Trung Quốc.
Dư địa thị trường Trung Quốc ở phân khúc trung và cao cấp vẫn còn rất lớn. Nếu kiểm soát tốt dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng và vi sinh vật, Việt Nam hoàn toàn có thể mở rộng xuất khẩu bền vững.
Trong khi đó, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy nhấn mạnh: “Nếu xác định sầu riêng là sản phẩm chiến lược quốc gia thì phải có sự đầu tư thỏa đáng”. Theo ông , ngành sầu riêng cần khẩn trương rà soát lại các vùng trồng phù hợp, tránh tình trạng mở rộng tự phát, lạm dụng đất rừng và đất dốc.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy yêu cầu quản lý nghiêm ngặt quy hoạch, không để việc phát triển “nóng” làm tổn hại đến cân bằng sinh thái và an toàn sản xuất.

Kiểm soát chi phí và xây dựng quy trình chuẩn
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Vũ Phi Hổ, đại diện Công ty CP Sầu riêng Tây Nguyên (Sarita) – chia sẻ, chi phí kiểm nghiệm là gánh nặng rất lớn. Với giá 400.000 đồng/mẫu, một container có thể tốn đến 40 triệu đồng tiền kiểm nghiệm. Với kế hoạch xuất khẩu 200 container/năm, chi phí kiểm nghiệm có thể lên đến hàng chục tỷ đồng.
Theo ông Võ Quan Huy, Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An, nhiều trường hợp dù không sử dụng hóa chất cấm, nhưng vẫn phát hiện dư lượng vượt ngưỡng do thiếu kiểm soát đầu vào. Hiện tượng tồn dư cadimi ở một số vùng Đồng bằng sông Cửu Long có thể bắt nguồn từ đặc điểm thổ nhưỡng và cách sử dụng phân bón.
Thực trạng phổ biến hiện nay là người trồng nhỏ lẻ, manh mún; thương lái gom hàng từ nhiều nơi, áp dụng cùng một mã vùng trồng, gây khó khăn cho việc truy xuất và kiểm soát chất lượng. Hệ thống dữ liệu vùng trồng còn thiếu, quy chuẩn sử dụng vật tư nông nghiệp chưa thống nhất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình chuyên nghiệp hóa.
Ông Võ Quan Huy nhấn mạnh, muốn khai thác thị trường toàn cầu trị giá 200 tỷ USD hiện nay (và có thể lên đến 400 tỷ USD vào năm 2035), phải xây dựng liên kết chặt chẽ giữa người trồng, cơ sở đóng gói, doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu. Đồng thời, tăng cường giám sát chủ sở hữu mã vùng và cơ sở đóng gói để đảm bảo minh bạch, truy xuất nguồn gốc rõ ràng – yếu tố quyết định để giữ uy tín và thị phần trên thị trường quốc tế.
Có thể nói, việc trồng sầu riêng tại Việt Nam, đang có tình trạng trồng manh mún, thiếu bài bản, người mua “góp nhặt mỗi chỗ một ít” để áp vào vườn cùng một mã vùng trồng làm cho việc kiểm soát chất lượng trở nên phức tạp khi mở rộng quy mô. Hệ thống dữ liệu vùng trồng còn thiếu, quy chuẩn sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật chưa đồng nhất…là rào cản cho hướng chuyên nghiệp hóa các tác nhân tham gia chuỗi giá trị sầu riêng…

bài, ảnh: Ngọc Bích