‘Huyền Chi và Thuyền Viễn Xứ’ trong ‘Hồn Đô Thị’

43
Ở thể loại bút ký, hầu hết các quyển sách đều có sử tính từ chính người viết. “Hồn Đô Thị” của tác giả Phạm Công Luận vừa xuất bản tháng 9/2022 đem lại không khí đó.
Cuốn sách dày 205 trang với 30 bài viết được trình bày cùng những bức tranh minh họa nhẹ nhàng, sâu lắng của một Sài Gòn với những thân phận người xuyên suốt chiều dài lịch sử cũ-mới, những con người khắp mọi miền đổ về đây kiếm sống, lập nghiệp và tạo lập nên hồn phố bao dung.
Xin giới thiệu một bài viết đăng trong cuốn Sài Gòn chuyện đời của phố tập 4 và mới đây được tái bản trong tập sách này với sự đồng ý của tác giả Phạm Công Luận:
“Huyền Chi và Thuyền Viễn Xứ
Cách nay hơn hai mươi năm, tôi lên huyện Đà Bắc, ngọn nguồn sông Đà bằng xe máy. Đường núi vắng vẻ, trời âm âm như sắp mưa. Đi qua bản Thái, nghe tiếng mõ trâu lộc cộc trong nắng chiều, bỗng nhớ về những chuyện ma mị huyền hoặc trong cuốn sách cổ Truyền kỳ Mạn lục có vài câu chuyện ở xứ Đà Bắc này. Đi ven sông Đà mênh mông, rải rác có những ngọn cây nhô lên từ lòng hồ thủy điện, câu hát cũ bỗng hiện về: “Mịt mờ sương khói mênh mông, lũ thùy dương rũ bóng ven sông. Chiều nay trên bến muôn phương, có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường”. Ca khúc gợi cảm về con sóng Đà Giang đang vỗ oàm oạp bên chân tôi mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc từ một bài thơ của tác giả bí ẩn có tên là Huyền Chi.
Trong một tập sách in những ca khúc của ông, Phạm Duy có đưa vào một câu dưới bài Thuyền Viễn Xứ: “Huyền Chi, cô ở đâu?”. Đó cũng là một câu hỏi của tôi, khi nghe lại ca khúc đầy ắp cảm xúc này. Huyền Chi là ai? Chút thông tin trên mạng cho biết cô là một cô gái phụ mẹ bán vải ở chợ Bến Thành. Cơ duyên nào khiến bài thơ của cô được nhạc sĩ danh tiếng Phạm Duy phổ nhạc?
Đầu năm 2016, tôi xem được những tấm ảnh của Huyền Chi và biết thêm nhiều thông tin về cô. Trong ảnh, Huyền Chi là một cô gái có nét đẹp của một diễn viên điện ảnh với dáng cao, cân đối và trắng trẻo. Cô gái ấy sinh ra ở vùng Tân Định, Sài Gòn, có lúc ra định cư tại Phan Thiết rồi quay về sống ở thành phố này cho tới nay. Cô học tiếng Anh từ trước 1954 khi tiếng Pháp là ngoại ngữ phổ biến đang được học hằng ngày ở các trường Tây tại Sài Gòn. Cô làm thơ khi còn rất trẻ, ra một tập thơ duy nhất năm 18 tuổi rồi để thất lạc. Cô có một bài thơ được phổ thành ca khúc Thuyền Viễn Xứ của nhạc sĩ Phạm Duy dù cô chỉ gặp ông một lần duy nhất trong đời.

Năm 1952, nhà thơ Huyền Chi tròn 18 tuổi (ảnh bên) thường ra phụ mẹ bán hàng ở sạp vải cửa Nam chợ Bến Thành.

Huyền Chi, cô đang ở đâu?
Tôi gặp bà Hồ Thị Ngọc Bút tại quận 2, trước giờ bà dạy Anh văn tại nhà. Không thể nghĩ rằng bà đã 82 tuổi. Trước mặt tôi là một phụ nữ trắng trẻo, da còn căng và vóc dáng cao, khỏe mạnh. Bà Ngọc Bút chính là nhà thơ Huyền Chi của những năm đầu thập niên 1950.
Đầu thập niên 1930, có một kỹ sư hỏa xa (Adjoint Technique Ingénieur) tên là Hồ Văn Ánh, từng được đào tạo tại Pháp trong những khóa đầu tiên cho thuộc địa. Năm 1940, ông làm Giám đốc Hỏa xa các tỉnh Phan Thiết, Phan Rang và Nha Trang, có ngôi nhà riêng hai tầng khang trang ở Phan Thiết, một “wagon” riêng trên tàu hỏa đặc biệt cho gia đình tùy nghi sử dụng miễn phí. Công việc của ông là tổ chức, đào tạo, kiểm soát và duy trì hệ thống hỏa xa toàn quốc. Vì công việc, ông phải di chuyển và ở lại nhiều thành phố nên vợ ông lần lượt sinh sáu người con ở các nơi trên đường công tác. Cô con gái út Ngọc Bút được sinh ra tại Sài Gòn, khi ông làm việc tại đây. Khi ông đến Phan Thiết, Ngọc Bút được đi học tại Trường Nữ Tiểu học Phan Thiết (Mãi đến năm 1952, Phan Thiết mới có Đệ nhất cấp, gồm các lớp đệ Thất, đệ Lục, đệ Ngũ, đệ Tứ – bây giờ là lớp 6,7,8, 9. Vài năm sau mới có thêm đệ Tam, đệ Nhị và đệ Nhất, tức lớp 10,11,12).
Cuộc sống đang êm đềm thì biến cố xảy ra, bà nội của cô ở quê nhà Bắc Ninh bệnh nặng. Đáng lẽ tất cả gia đình đều phải về, nhưng trong nhà có một người con đang bị bệnh nên chỉ có ba cô và hai anh chị cô về Bắc trước. Dự tính khi con bớt bệnh, mẹ cô sẽ dẫn tất cả về luôn. Không ngờ đó là lần cuối cùng cô gặp cha, rồi do bom đạn, loạn lạc, tản cư và cuối cùng là cuộc chia đôi đất nước thình lình khiến gia đình cô phân cách vĩnh viễn. Sau đó, cô lên Đà Lạt ở với người chị ruột, vừa giúp chị trông hiệu sách nhà in, vừa đi học tư. Hai năm sau cô trở về Sài Gòn vì mẹ cô mở sạp bán vải tại Cửa Nam chợ Bến Thành để sinh sống. Cô ở với mẹ vừa đi làm, vừa đi học, vừa dọn hàng giúp mẹ.
Trong thời gian hai miền Bắc Nam được tự do thông thương năm 1954, mẹ đã trở về Bắc với cha cô, nhưng bốn người con thì ở lại miền Nam vì lúc ấy ai cũng đã có công ăn việc làm, và cô cũng sắp kết hôn.

Chân dung Huyền Chi thời trẻ.

Những năm tuổi nhỏ được theo cha mẹ về thăm quê mỗi năm và đi đây đi đó, Ngọc Bút có nhiều cảm xúc về quê hương xứ Bắc. Hơn nữa sự phân ly, chia cắt gia đình quá sớm khi cô còn bé đã để lại một ấn tượng sâu trong lòng cô. Vì vậy cô đã tưởng tượng ra một cuộc chia ly trên quê hương trước khi nó biến thành sự thực. Đó là lý do ra đời của bài thơ Thuyền Viễn Xứ. Nhiều người hỏi “Tại sao cô còn trẻ mà làm thơ buồn vậy?”. Cô trả lời: “Tôi tưởng tượng thôi mà!”. Nhưng thật ra nỗi đau âm ỉ trong lòng cô trong nhiều năm đã tạo ra những vần thơ ấy.
Năm 1952, Ngọc Bút đến nhà in báo Sống Chung trên đường Trần Hưng Đạo, quận Nhứt để xem tập thơ vừa in xong của mình. Tập thơ mang tên Cởi mở, gom lại 22 bài thơ do cô viết từ năm 16 tuổi. Lúc đó, tuy mới 18, cô đã tham gia biên tập thơ cho báo Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Lan Phương và gia nhập nhóm thơ-văn-nhạc lấy tên là Chim Việt. Những bài thơ trong tập đã được đăng rải rác trên một số báo, cô dùng bút danh là Khánh Ngọc rồi sau đó là Huyền Chi. Buổi đó, nhạc sĩ Phạm Duy vừa đến và được bà Đào, chủ nhà in giới thiệu về cô. Phạm Duy khi ấy còn trẻ, mới 32 tuổi nhưng đã nổi tiếng. Ông vừa đưa gia đình vào Nam và đang thu xếp cuộc sống ổn định ở quê hương mới cho gia đình. Biết cô vừa in xong tập thơ, ông mượn xem và xin cô một tập để nếu có bài nào hay thì xin được phổ thành ca khúc.
Một thời gian sau, cô nghe được ca khúc Thuyền Viễn Xứ do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ bài thơ lục bát của cô trên sóng phát thanh và thấy ca khúc này được in thành tờ nhạc khổ lớn rất thịnh hành lúc đó của hai nhà xuất bản Tinh Hoa và Á Châu. Trên bìa hai ấn phẩm này đều ghi rõ: Nhạc: Phạm Duy, thơ: Huyền Chi. Đó là khoảng thời gian cô vừa lập gia đình với ông Trần Phụng Tường, giáo sư trung học. Cô rời khỏi công việc biên tập thơ, theo chồng về Phan Thiết. Cô hầu như không tiếp tục làm thơ, lo toan làm ăn, mở hiệu sách, dạy tiếng Anh và chăm sóc tới bảy người con. Có lần, trong tờ giấy in ca khúc Thuyền Viễn Xứ, cô thấy lời nhắn của nhạc sĩ Phạm Duy “ Huyền Chi, cô ở đâu?”. Thỉnh thoảng, cô vẫn nghe trên sóng phát thanh giọng hát Lệ Thu. Cô nhận thấy nhạc sĩ Phạm Duy rất tài tình, biến bài thơ lục bát với nhịp điệu chậm rãi, đều đặn của cô thành một ca khúc đầy cảm xúc. Ông chắt lọc ngôn ngữ trong thơ, thêm thắt và tạo nên một tác phẩm âm nhạc hoàn hảo.
Có một sự kiện đáng nhớ trong những năm tuổi trẻ của cô khi chưa lập gia đình. Lúc cô mới làm đám hỏi và ba tháng sau sẽ cưới, có một chàng mỗi ngày chặn đường cô để hỏi một câu “N. đã đổi ý chưa?”. Cô lắc đầu, anh ta quay đi, buồn rầu. Sau ngày cô làm đám cưới, anh tính về Bắc xa Sài Gòn một tháng để quên nhưng không ngờ cuộc chia cắt đất nước đã làm anh kẹt lại ngoài ấy, bỏ lại mẹ già trong Nam đến… 21 năm. Năm 1975, trở về Sài Gòn, anh lại tìm đường đến nhà thăm cô. Từ đó thỉnh thoảng anh lại đến thăm vợ chồng cô như những người bạn.
Năm 1975 bà Ngọc Bút cùng gia đình về lại Sài Gòn, nơi chôn nhau cắt rốn của bà và sống ở đây đến nay. Phu quân của bà đã tạ thế năm 2010 sau mười năm nằm một chỗ vì bệnh. Trong khoảng thời gian này, bà được tin nhắn mong muốn có cuộc gặp của nhạc sĩ Phạm Duy sau khi ông hồi hương về Việt Nam nhưng bà xin được từ chối vì bận chăm sóc chồng. Sau đó, bà có nhận một khoản tiền tác quyền từ lời của ca khúc Thuyền Viễn Xứ từ nơi sở hữu tác quyền ca khúc này.

Bà Ngọc Bút (nhà thơ Huyền Chi) năm 2016 tại Sài Gòn.

Đọc lại bài thơ Thuyền Viễn Xứ của bà Ngọc Bút, người đọc có thể nghĩ rằng với một người sáng tác thơ nhuần nhuyễn như vậy, vì sao bà không đi tiếp con đường sáng tác của mình? Giọng điệu thơ của một cô gái mới 16, 17 tuổi đã rất đằm sâu và mênh mang, với giọng điệu và ngôn ngữ phóng khoáng: “… Có thuyền viễn xứ Đà Giang/ Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa/ Hò ơi! Câu hát ngàn xưa/ Ngân lên trong một chiều mưa xứ người/ Đường về cố lý xa xôi/ Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang/ Sau mùa mưa gió phũ phàng/ Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa/ Lệ nhòa như nước sông Đà/ Mái đầu sương tuyết lòng già mong con…”. Gặp tài năng của nhạc sĩ Phạm Duy, ca khúc lại mang sắc thái khác: “Chiều nay sương khói lên khơi. Thùy dương rũ bến tơi bời. Làn mây hồng pha ráng trời. Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người. Thuyền ơi, viễn xứ xa xưa. Một lần qua dạt bến lau thưa. Hò ơi, giọng hát thiên thu. Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn về…”. Có thể thú sáng tác thơ chỉ là một cuộc chơi thời mới lớn của bà Ngọc Bút, nhưng âm hưởng của nó lan xa, từ một duyên may khi gặp được sự đồng điệu đồng cảm của người phổ nhạc là Phạm Duy. Có thể vì ông cũng là một người xa xứ, khi đọc được bài thơ cũng là lúc ông vừa giã từ quê hương miền Bắc để trở thành cư dân của Sài Gòn, nơi ông có thời hoạt động âm nhạc sôi nổi nhất và cũng là nơi ông nằm xuống.
Đến nay, ca khúc này rất gắn bó với người Việt hải ngoại. Họ thấy mình trong đó, như vẫn còn đang đi trên con thuyền viễn xứ.” (hết trích)

Theo TGHN