Toàn văn phát biểu của Bộ trưởng KHCN Huỳnh Thành Đạt tại phiên toàn thể Diễn đàn Mekong Connect năm 2024

Tôi rất vinh dự và vui mừng được tham dự và phát biểu tại Diễn đàn Mekong Connect lần thứ 9 năm 2024, với chủ đề Đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại và công nghệ vùng ĐBSCL – TP.HCM và cả nước, hướng tới phát triển bền vững trong bối cảnh cạnh tranh mới”.

Kính thưa các đồng chí, quý vị đại biểu,

Mekong Connect là một diễn đàn thường niên uy tín, là cầu nối vững chắc giữa các tỉnh Vùng ĐBSCL với TP.HCM và cả nước. Tôi ghi nhận và đánh giá cao việc tổ chức Diễn đàn với cách làm sáng tạo, có tính kế thừa, có mục tiêu rõ ràng để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Được khởi nguồn từ sáng kiến liên kết vùng ABCD Mekong (An Giang – Bến Tre – Cần Thơ – Đồng Tháp), Mekong Connect không chỉ là nơi hội tụ các ý tưởng, sáng kiến, mà còn là không gian để các địa phương, doanh nghiệp, chuyên gia và nhà hoạch định chính sách cùng thảo luận, đề xuất các giải pháp thực tiễn nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững cho toàn vùng.

Vùng ĐBSCL gồm 13 địa phương, trong đó có 6 địa phương thuộc nhóm 30 địa phương dẫn đầu cả nước về Chỉ số Đổi mới sáng tạo địa phương (PII) do Bộ KH&CN công bố năm 2023 là: Cần Thơ (49.66 điểm, xếp thứ 5/63), Long An (44.95 điểm, xếp thứ 12/63), Đồng Tháp (38.32 điểm, xếp thứ 25/63), Tiền Giang (37.66 điểm, xếp thứ 27/63), Bến Tre (37.65 điểm, xếp thứ 28/63) và Vĩnh Long (37.37 điểm, xếp thứ 29/63). Theo điểm số và thứ hạng có thể thấy các địa phương vùng ĐBSCL chia làm ba nhóm khá rõ, có Cần Thơ và Long An ở nhóm đầu; Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Hậu Giang và Trà Vinh ở nhóm thứ hai với điểm số trong khoảng từ 34.94 đến 38.32 điểm và Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang, Cà Mau, Kiên Giang ở nhóm thứ ba với điểm số từ 29.80 đến 32.54 điểm, thứ tự xếp hạng phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên và cơ cấu kinh tế của các địa phương trong vùng.

Bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương (được gọi tắt là PII theo tiếng Anh – Provincial Innovation Index) cung cấp bức tranh thực tế, tổng thể về hiện trạng mô hình phát triển KT-XH dựa trên KHCN&ĐMST của từng địa phương. Bộ chỉ số cung cấp căn cứ và bằng chứng về điểm mạnh, yếu, các yếu tố tiềm năng và các điều kiện cần thiết để thúc đẩy phát triển KT-XH dựa trên KHCN&ĐMST của từng địa phương.

Dựa trên bộ chỉ số này, các nhà hoạch định chính sách, các cấp lãnh đạo địa phương có cơ sở xác định, lựa chọn các định hướng, giải pháp phù hợp cho việc phát triển KT-XH của địa phương mình dựa trên KHCN&ĐMST.

Kính thưa các đồng chí, quý vị đại biểu,

ĐBSCL được đánh giá là vùng đất giàu tiềm năng với những cánh đồng lúa rộng lớn, hệ sinh thái thủy sản phong phú và nguồn lao động dồi dào, là trụ cột quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, ĐBSCL đang đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, sụt lún đất và áp lực cạnh tranh toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, tôi cho rằng sự liên kết chặt chẽ giữa ĐBSCL và TP.HCM – là trung tâm kinh tế, thương mại và công nghệ hàng đầu của cả nước, chính là chìa khóa để vượt qua các thách thức, tối ưu hóa nguồn lực và gia tăng giá trị cho vùng.

Đồng thời, thông qua các diễn đàn như Mekong Connect ngày hôm nay, Vùng ĐBSCL đang dần khẳng định sự quan tâm, đẩy mạnh các hoạt động, mô hình khởi nghiệp theo định hướng phát triển bền vững, kinh tế xanh, công nghệ xanh, thúc đẩy thương mại bền vững, tận dụng tốt nguồn lực sẵn có của địa phương. Tôi cho rằng, đây là hướng đi đúng đắn, để bắt kịp xu thế của thế giới trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao năng lực cạnh tranh của Vùng.

Kính thưa các đồng chí, quý vị đại biểu,

Để đạt được các mục tiêu, ý tưởng phát triển bền vững, các địa phương Vùng ĐBSCL cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động gắn với KHCN&ĐMST, tôi đề nghị các địa phương trong Vùng cùng tập trung nghiên cứu một số định hướng sau:

Một là, chủ động nghiên cứu, đề xuất, tham mưu các cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy HST KNST theo hướng thí điểm các cơ chế mới, cơ chế đặc thù để triển khai các hoạt động theo chiều sâu nhằm giải quyết các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm của địa phương tương tự như Nghị quyết số 98/2023/QH15 ngày 24/06/2023 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM.

Hai là, Tiếp tục triển khai các hoạt động xây dựng HST KNST tại các địa phương trong Vùng, gắn với các lĩnh vực khai thác tốt thế mạnh của Vùng theo định hướng của Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị “về phương hướng phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, đặc biệt là trong kinh tế biển, kinh tế tuần hoàn, kinh tế du lịch, thích ứng biến đổi khí hậu.

Ba là, Thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới; Nghị quyết số 189/NQ-CP ngày 16/11/2023 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, Bộ KH&CN đang triển khai một số Chương trình có các hoạt động KH,CN&ĐMST phù hợp tỉnh An Giang nói riêng và Vùng ĐBSCL nói chung như: (1) Chương trình cấp quốc gia về bảo tồn, khai thác phát triển nguồn gen, đây là chương trình được triển khai với mục tiêu bảo tồn, khai thác các nguồn gen đặc hữu của Việt Nam phục vụ phát triển đa dạng sinh học, đồng thời lưu giữ các nguồn gen bản địa quý hiếm (bao gồm các giống lúa, giống cây dược liệu) góp phần thực hiện công tác lai tạo các dòng/giống mới phục vụ phát triển kinh tế; (2) Chương trình KC12 về nghiên cứu và phát triển công nghệ sinh học, trong đó có định hướng ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo các giống cây, giống con; (3) Chương trình KC11 về phát triển nguồn dược liệu; (4) Chương trình KC07 về chế biến sản phẩm nông lâm sản; (5) Chương trình 703 có nội dung về nghiên cứu chọn tạo giống… Đề nghị các địa phương phối hợp với các trường/viện, các nhà khoa học nghiên cứu, đề xuất các nhiệm vụ KH&CN theo những chương trình nêu trên để nghiên cứu chọn, tạo các giống lúa chất lượng cao thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển giống cây dược liệu trong vùng thành dược liệu quý, tạo ra các chế phẩm vi sinh vật phục vụ canh tác, xử lý môi trường, từ đó nâng cao năng suất chất lượng, nâng cao khả năng chống chịu sâu hại, giảm phát thải ra môi trường, đồng thời hướng tới sớm hoàn thành mục tiêu của đề án “Phát triển bền vững một triệu hec-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” và đạt được mục tiêu phát triển bền vững của Vùng.

Bốn là, Đầu năm 2024, Bộ KH&CN đã bắt đầu triển khai thực hiện Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 “KH&CN ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững vùng ĐBSCL”, mã số KC.15/21-30 và giao Giám đốc ĐHQG-HCM và Thứ trưởng Bộ TN&MT đồng Chủ nhiệm. Mục tiêu tổng quát của Chương trình: Cung cấp luận cứ khoa học, giải pháp, mô hình ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhằm ứng phó chủ động và hiệu quả với biến đổi khí và thích ứng với tác động của thượng nguồn sông Mê Công, phát triển bền vững, góp phần đưa ĐBSCL trở thành vùng kinh tế trọng điểm, văn minh sinh thái và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước của cả nước, hội nhập khu vực và quốc tế.

Chương trình nhận được sự quan tâm rất lớn của các tỉnh, các đơn vị, nhà khoa học. Tính riêng trong đợt kêu gọi đề xuất nhiệm vụ đầu năm 2024, Bộ KH&CN đã nhận được hơn 180 đề xuất từ các bộ, ngành và các nhà khoa học. Bộ đã thực hiện quy trình lựa chọn được 35 nhiệm vụ dự kiến đưa vào triển khai thực hiện trong đó đã triển khai tuyển chọn 12 nhiệm vụ ưu tiên và đang thành lập Hội đồng đánh giá.

Nhân dịp này, tôi đề nghị các cơ quan, đơn vị, các trường Đại học trong vùng tiếp tục quan tâm tới chương trình, nâng cao chất lượng của các đề xuất, cần tập trung đề xuất trúng vấn đề, đúng tầm của nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia. Đồng thời, các đơn vị tham mưu về KH&CN tại các tỉnh cần chủ động phối hợp với các chuyên gia, nhà khoa học tham mưu UBND tỉnh đặt hàng nhiệm vụ hoặc chỉ cần nêu ý tưởng, bài toán cần giải quyết, Bộ KH&CN sẽ sẵn sàng hỗ trợ, hướng dẫn xây dựng đầu bài trong các Chương trình KH&CN phù hợp.

Năm là, Vừa rồi (đầu tháng 12 này), Bộ KH&CN cũng đã tổ chức công bố và kêu gọi đề xuất các nhiệm vụ triển khai Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 về “Nghiên cứu KH&CN phục vụ mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 tại Việt Nam“, theo đó, các địa phương, trường/việc, các tổ chức KH&CN có thể tham gia đề xuất các đề tài, dự án, nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN để góp phần đẩy nhanh mục tiêu phát triển bền vững của Vùng.

Sáu là, để thúc đẩy kết nối, hợp tác phát triển Vùng ĐBSCL với TP.HCM và cả nước thì trước hết cần quan tâm đến đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, trong đó vấn đề nghiên cứu sử dụng các nguồn vật liệu thay thế nguồn tài nguyên vật liệu tự nhiên (cát, đá, sỏi, …) đang dần cạn kiệt như sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất, phân bón; xử lý cát mặn làm vật liệu xây dựng, giao thông đang là thách thức lớn đối với Vùng ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung. Tính đến nay, Bộ KH&CN đã thực hiện việc thẩm định/công bố các tiêu chuẩn (TCVN), quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) có liên quan đáp ứng nhu cầu thực tiễn, bao gồm: 01 QCVN và 07 TCVN đối với cát thường (cốt liệu nhỏ); 03 TCVN đối với cát nhiễm mặn; 02 TCVN đối với nền đường ô tô và tro xỉ nhiệt điện đốt tham làm nền đường ô tô; 05 TCVN đối với tro, xỉ làm vật liệu san lấp.

Từ năm 2023, Bộ KH&CN đã phối hợp với Bộ GTVT, Bộ TN-MT, Bộ NNPTNT thực hiện nhiệm vụ “Nghiên cứu, đánh giá việc sử dụng cát biển làm vật liệu xây dựng cho hạ tầng giao thông và xây dựng”. Qua kết quả nghiên cứu bước đầu đánh giá, việc sử dụng cát nhiễm mặn làm vật liệu xây dựng cho san lấp mặt bằng, hạ tầng giao thông và xây dựng là hoàn toàn có thể. Đề nghị các tỉnh chủ động nghiên cứu sử dụng cát biển làm vật liệu đắp nền theo hướng dẫn của Bộ GTVT để giảm áp lực đối với nguồn cát sông, trong quá trình triển khai thực hiện các dự án. Đồng thời, cần tiếp tục nghiên cứu, theo dõi, đánh giá tác động của cát mặn đối với môi trường, cây trồng, vật nuôi trước khi triển khai nhân rộng.

Bảy là, Tăng cường liên kết vùng, nâng cao nguồn vốn đầu tư, nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng cường huy động nguồn lực ngoài ngân sách đầu tư cho hoạt động KHCN&ĐMST. Huy động các viện, trường, chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia giải quyết các vấn đề khó khăn của Vùng. Triển khai xây dựng và phát triển các trung tâm hỗ trợ KNST tại địa phương với quy mô vùng, gắn kết với cực tăng trưởng phía Nam tại TP.HCM; đẩy mạnh phát triển thị trường, doanh nghiệp KH&CN; tổ chức thực hiện các giải pháp cải thiện, nâng cao Chỉ số ĐMST (PII) của địa phương. 

Một lần nữa, kính chúc các đồng chí Lãnh đạo, quý vị đại biểu sức khỏe, hạnh phúc và thành công. Chúc Diễn đàn Mekong Connect năm 2024 thành công tốt đẹp và sẽ mang lại nhiều giá trị thiết thực cho vùng ĐBSCL và cả nước.

Trân trọng cảm ơn./.